Doanh nghiệp cần tận dụng tiềm năng và lợi thế của các mặt hàng xuất khẩu Việt Nam trong khu vực cũng như ưu đãi từ các hiệp định thương mại tự do (FTA) để đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường khu vực châu Á.
Hiện nay, các nước ASEAN xoá bỏ thuế quan cho Việt Nam khoảng 85,9 - 100% số dòng thuế; lộ trình dài nhất từ 15 - 20 năm kể từ khi FTA có hiệu lực. Ngoài ra, các nước đối tác xoá bỏ thuế quan cho Việt Nam khoảng 90,7 - 98,3% số dòng thuế; lộ trình dài nhất từ 15 - 20 năm kể từ khi FTA có hiệu lực.
Điểm khác biệt về thuế với hiệp định này là các nước áp dụng cam kết thuế quan khác nhau với các đối tác khác nhau cho một số mặt hàng trong khi các FTA khác chỉ áp dụng một biểu cam kết thuế quan.
Theo ông Quyền Anh Ngọc, Trưởng phòng ASEAN - Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương) cho biết, trong Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP), các nước cam kết xóa bỏ, cắt giảm thuế nhập khẩu, không cam kết đối với thuế xuất khẩu. Cùng đó, việc mở cửa thị trường hàng hoá tương tự các FTA ASEAN hiện hành.
Theo ông Quyền Anh Ngọc, một số mặt hàng Việt Nam có thế mạnh xuất khẩu được các nước xoá bỏ thuế quan ngay sau khi Hiệp định RCEP có hiệu lực gồm thuỷ sản, thịt, rau quả, nông sản. Bên cạnh đó là một số loại máy móc, trang thiết bị cơ khí; dụng cụ phụ tùng, máy móc, máy vi tính và thiết bị linh kiện điện tử. Ngoài ra còn có một số nhóm hàng giày, dép và bộ phận, phụ kiện của giày, dép; nguyên liệu dệt, hàng dệt may, quần áo, hoá chất.
Đối với cam kết mở cửa thị trường dịch vụ của Việt Nam trong Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), cam kết toàn bộ 11 ngành hàng với khoảng 110/115 phân ngành dịch vụ (theo phân loại của WTO) từ dịch vụ viễn thông, tài chính, giao thông vận tải tới các dịch vụ khác như dịch vụ liên quan tới sản xuất, dịch vụ nghe nhìn…
Mặt khác, mở của toàn bộ khách sạn, nhà hàng, kho bãi, đại lý vận tải hàng hoá, chuyển phát nhanh và một số phân ngành dịch vụ chuyên môn như dịch vụ kế toán, kiểm toán, thế, kiến trúc, nghiên cứu và phát triển khoa học tự nhiên, cho thuê không kèm người điểu khiển đối với máy bay.
Nhận định về tiềm năng và lợi thế cho hàng xuất khẩu Việt Nam, ông Quyền Anh Ngọc nhấn mạnh tới việc đa dạng hoá nguồn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất; ưu đãi thuế nhập khẩu tại thị trường xuất khẩu. Hơn nữa, môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, thuận lợi, minh bạch hơn; quy tắc xuất xứ linh hoạt. Đặc biệt là tiết kiệm thời gian và chi phí đối với việc giao dịch, thông quan cũng như phát hành hoá đơn thương mại. Cùng đó là cơ hội tham gia vào các chuỗi giá trị trong khu vực.
Doanh nghiệp cần tận dụng tiềm năng và lợi thế từ các hiệp định thương mại tự do để đẩy mạnh xuất khẩu. Ảnh minh họa
Tuy nhiên, doanh nghiệp cần nỗ lực đổi mới sáng tạo, chủ động nâng cao năng lực cạnh tranh, tham gia các chuỗi cung ứng mới. Bên cạnh việc phối hợp chặt chẽ với Chính phủ, hiệp hội, doanh nghiệp cần chủ động nghiên cứu nắm vững cam kết cũng như xây dựng chiến lược sản xuất kinh doanh phù hợp để khai thác tối đa cơ hội.
Nhằm tận dụng ưu đãi từ các FTA để thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường Indonesia, ông Phạm Thế Cường - Tham tán Thương mại tại Indonesia nhấn mạnh: Indonesia là thị trường tiềm năng với dân số lớn thứ 4 thế giới, đặc biệt dân số ở độ tuổi lao động chiếm 60% dân số. Tăng trưởng kinh tế cao, ổn định thúc đẩy gia tăng nhu cầu tiêu dùng, nhập khẩu. Đáng lưu ý, tầng lớp trung lưu (50 triệu người) và đang gia tăng nhanh tạo động lực thúc đẩy tiêu dùng và tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa, nhu cầu nhập khẩu khá lớn; trong đó, nhập khẩu nhóm hàng tiêu dùng đang có xu hướng gia tăng.
Cũng theo ông Phạm Thế Cường, Indonesia là thị trường dễ tính hơn so với Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản và có văn hoá Á Đông gần gũi. Không những thế, khoảng cách địa lý gần cũng giúp doanh nghiệp Việt Nam giảm chi phí vận chuyển, tăng sức cạnh tranh hàng hoá. Đặc biệt, hàng hoá Việt Nam đang từng bước khẳng định vị thế tại Indonesia với giá trị kim ngạch xuất khẩu gia tăng; có lợi thế so sánh với nhiều nhóm hàng nông, thuỷ sản. Ngoài ra, hai nước cũng đã kết nối đường bay thẳng (Vietnam Airlines, Vietjet Air cũng là lợi thế để doanh nghiệp thâm nhập sâu hơn vào thị trường này.
Thế nhưng, Indonesia là thị trường mang tính bảo hộ cao như hạn ngạch, giấy phép nhập khẩu; chứng nhận Halal (phải do cơ quan có thẩm quyền Indonesia cấp); tiêu chuẩn quốc gia (SNI), quy định về cảng nhập khẩu (một số nhóm hàng); thường xuyên áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại. Bên cạnh đó, Indonesia là quốc gia có nhiều đảo, địa hình chia cắt là gia tăng chi phí logistics hàng hoá. Sự cạnh tranh của hàng hoá các nước ASEAN khác và nhất là Trung Quốc, cơ cấu hàng hoá nhóm nông, thuỷ sản của Indonesia cũng khá tương đồng với Việt Nam. Đi kèm đó là chính sách hạ nguồn, hạn chế xuất khẩu nguyên liệu thô của Indonesia cũng tạo áp lực không nhỏ cho doanh nghiệp.
Vì vậy, để đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường này, doanh nghiệp cần chủ động xin giấy chứng nhận Halal Indonesia, chứng nhận tiêu chuẩn quốc gia SNI. Cùng đó, chủ động liên hệ, phối hợp chặt chẽ với cơ quan hữu quan Việt Nam trong trường hợp Indonesia khởi xướng các biện pháp phòng vệ thương mại có liên quan tới sản phẩm của doanh nghiệp nhằm bảo vệ quyền lợi của mình.
Nhằm tránh bị lừa đảo hay tranh chấp thương mại, ông Phạm Thế Cường khuyến nghị doanh nghiệp cần cảnh giác khi thấy việc đàm phán giá cả, hợp đồng đang diễn ra nhanh chóng, ít mặc cả, chấp nhận giá cao; không cung cấp hoặc cung cấp giấy tờ pháp lý doanh nghiệp dưới nhiều pháp nhân khác nhau. Do đó, trước khi ký hợp đồng doanh nghiệp cần yêu cầu đối tác Indonesia phải cung cấp chứng nhận/sổ đăng ký kinh doanh (NIB) và mã số thuế (TIN). Mặt khác, thực hiện thẩm tra đối tác thông qua Thương vụ, Phòng Thương mại và Công nghiệp Indonesia, các hiệp hội của Indonesia, Trung tâm thông tin tín dụng quốc gia Việt Nam (CIC). Đặc biệt, doanh nghiệp lưu ý không chuyển tiền đặt cọc vào tài khoản cá nhân. Điều khoản hợp đồng chặt chẽ, lưu ý điều khoản bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp mình; trong đó, phải có điều khoản về tranh chấp, khiếu nại.
Khánh Mai (t/h) /Chất lượng Việt Nam