Ngành dệt may trước áp lực chuyển đổi quy trình sản xuất theo hướng xanh hóa

09:58 | 22/10/2024
Việt Nam với vai trò là quốc gia xuất khẩu dệt may lớn thứ ba thế giới và khoảng 3 triệu lao động trực tiếp trong ngành, đứng trước những cơ hội và thách thức không nhỏ trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh.

Nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức hướng tới sự phát triển xanh, bền vững ngành dệt may. Ảnh minh họa

Áp lực từ thị trường quốc tế

Việc tham gia vào các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới như Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - EU (EVFTA) hay Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) mang lại nhiều cơ hội, nhưng đồng thời cũng đặt ra những yêu cầu khắt khe về tiêu chuẩn bảo vệ môi trường và phát thải thấp. Các doanh nghiệp không chỉ phải đáp ứng những quy định liên quan đến môi trường, mà còn phải đảm bảo trách nhiệm xã hội với người lao động và người tiêu dùng.

Ngành dệt may, đặc biệt là thời trang và da giày, hiện được xem là ngành công nghiệp gây ô nhiễm lớn thứ hai trên thế giới, chỉ sau ngành khai thác dầu mỏ. Các hoạt động sản xuất dệt may tiêu thụ lượng nước lớn, sử dụng nhiều hóa chất và phát thải khí nhà kính, từ đó gây ô nhiễm không khí, nước và đất. Điều này khiến ngành dệt may toàn cầu, bao gồm Việt Nam, phải đối mặt với áp lực rất lớn trong việc chuyển đổi quy trình sản xuất theo hướng xanh hóa.

Hiệp hội Dệt May Việt Nam (Vitas) cho biết đến nay Việt Nam đã cam kết tham gia thực hiện đầy đủ 17 mục tiêu về phát triển bền vững trong Chương trình nghị sự 2030 toàn cầu; các cam kết tại COP26… Vì vậy, yêu cầu về chất lượng, đặc biệt yếu tố ảnh hưởng môi trường của sản phẩm ngày càng được nhấn mạnh và trở thành tiêu chuẩn để lựa chọn nhà cung cấp.

Thách thức trong quá trình chuyển đổi

Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn Dệt May Việt Nam Lê Tiến Trường cho biết, ngành dệt may Việt Nam thuộc tốp 4 ngành xuất khẩu chủ lực của quốc gia năm 2023, với kim ngạch xuất khẩu đạt 39,7 tỷ USD (chiếm hơn 11% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước). Hiện nay, ngành dệt may có khoảng 7.000 doanh nghiệp đang hoạt động, bảo đảm việc làm cho trên 3 triệu lao động trực tiếp trong ngành, chưa kể các ngành liên quan, công nghiệp hỗ trợ. Vì vậy, khi chuyển dịch sang sản xuất xanh, ngành dệt may sẽ tạo ra rất nhiều cơ hội việc làm xanh, bền vững cho người lao động, góp phần ổn định đời sống, nâng cao chất lượng làm việc, đóng góp vào công tác an sinh xã hội quốc gia.

Cũng theo ông Trường, mặc dù xanh hóa sản xuất dệt may có thể mang lại cơ hội để ngành dệt may Việt Nam vươn lên một nấc thang mới trong chuỗi giá trị toàn cầu, nhưng doanh nghiệp trong ngành cũng sẽ đối diện với thách thức rất lớn.

Thứ nhất, lựa chọn nguyên liệu xanh, thân thiện với môi trường phục vụ sản xuất đang là mối quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp dệt may do hạn chế về nguồn cung, cũng như thị hiếu của người tiêu dùng. Mặc dù người tiêu dùng đang có xu hướng ngày càng ủng hộ vật liệu xanh, bền vững hơn, nhưng thực tế cho thấy vật liệu tổng hợp đang chiếm ưu thế do giá rẻ, đáp ứng được yêu cầu đa dạng về thiết kế, mục đích sử dụng và nguồn cung dồi dào. Các loại nguyên liệu từ bông, lanh, gai dầu và đay hiện đang phổ biến nhất trong nhóm nguyên liệu xanh, tuy nhiên theo số liệu của Textile Exchange, các loại xơ thực vật này chỉ chiếm 27% tổng sản lượng xơ toàn cầu (trong đó, bông chiếm 22%), xơ tổng hợp từ bột gỗ chỉ chiếm 6,3%. Trong khi đó, xơ hóa học tổng hợp chiếm tới 65% tổng sản lượng toàn cầu, phổ biến nhất là xơ polyester (54%) và polyamid (5%). Do đó, nguồn cung nguyên liệu và khả năng chi trả của người tiêu dùng cho sản phẩm có nguồn gốc thân thiện với môi trường vẫn là rào cản đáng kể đối với doanh nghiệp dệt may trên thế giới nói chung và dệt may Việt Nam nói riêng.

Thứ hai, sản phẩm xanh, thân thiện với môi trường vẫn là sản phẩm thuộc phân khúc thị trường ngách với giá cao, khó cạnh tranh về giá với sản phẩm truyền thống hiện hữu, nhất là trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều khó khăn như hiện tại. Do đó, thị trường tiêu thụ hạn chế sẽ là thách thức đối với việc chuyển đổi xanh cho doanh nghiệp dệt may Việt Nam.

Thứ ba, về mặt chính sách, mặc dù chủ trương phát triển kinh tế xanh đã được quan tâm trong thời gian gần đây, nhưng chính sách cụ thể để xanh hóa ngành dệt may vẫn còn thiếu và chưa triển khai đồng bộ. Chưa có quy định rõ ràng về phát triển bền vững hay phát triển kinh tế xanh áp dụng cho ngành dệt may. Do đó, doanh nghiệp trong ngành vẫn chưa có được hành lang pháp lý rõ ràng, chưa có khuyến khích chuyển dịch xanh hóa một cách hiệu lực. Hiện nay, hệ thống chiến lược với nhiều mục tiêu, định hướng và hành động trong Chiến lược và Kế hoạch hành động tăng trưởng xanh chưa được được lồng ghép triệt để hoặc chi tiết hóa, đặc biệt là ở nội dung chuyên ngành (ví dụ, quy hoạch và phát triển khu công nghiệp xanh cho ngành sợi).

Thứ tư, hệ thống tài chính xanh còn non trẻ khiến dự án dệt may xanh gặp nhiều khó khăn trong việc huy động nguồn tài chính, bao gồm cả huy động vốn hoặc tiếp cận nguồn tín dụng ưu đãi. Điều này xuất phát từ khung pháp lý tài chính xanh chưa hoàn thiện (ví dụ, trường hợp thị trường trái phiếu xanh) và công cụ huy động tài chính xanh mới chưa được triển khai (ví dụ, trường hợp thị trường giao dịch tín chỉ các-bon). Ngoài ra, doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần sự hướng dẫn triển khai đồng bộ, dự án thí điểm và hỗ trợ nâng cao năng lực huy động vốn, đặc biệt là với sản phẩm và cơ chế tài chính mới còn xa lạ đối với thị trường Việt Nam. Đặc thù của sản xuất dệt may xanh là hướng tới sự bền vững, tăng trưởng ổn định trong dài hạn, rất khó để thấy được hiệu quả ngay trong những năm đầu, do đó công cụ tín dụng xanh cần được xây dựng phù hợp với đầu tư sản xuất xanh trong ngành dệt may.

Cuối cùng là mức độ nhận thức và sự tham gia của người dân vào các vấn đề tăng trưởng xanh và phát triển bền vững vẫn chưa cao. Điều này hạn chế tiềm năng thay đổi hành vi và đổi mới xã hội có thể hỗ trợ tăng cường xanh hóa ngành dệt may và phát thải ít carbon.

Về phía ông Vũ Đức Giang - Chủ tịch Vitas cho biết, theo kết quả điều tra về xu hướng người tiêu dùng gần đây của tập đoàn McKinsey (một trong ba công ty tư vấn chiến lược và quản trị toàn cầu lớn nhất thế giới), về dài hạn, có đến 65% người tiêu dùng chuyển từ thời trang nhanh sang thời trang cơ bản và lâu bền; 67% quan tâm nhiều về tính bền vững môi trường và xã hội của các nhãn hàng thời trang.

Như vậy, có thể thấy, chính sức ép từ người tiêu dùng sẽ tạo ra “lực đẩy” để các nhà sản xuất cam kết và hành động cải thiện tính bền vững trong suốt chuỗi cung ứng.

Xanh hóa cũng giúp quản lý chặt chẽ hơn tiêu thụ năng lượng điện, nước, khí thải, nước thải, hóa chất, tiết kiệm chi phí sản xuất, tăng hiệu quả và năng lực cạnh tranh. Ngoài ra, doanh nghiệp tham gia xanh hóa và kinh tế tuần hoàn sẽ được chính phủ hỗ trợ thị trường tiêu thụ, hỗ trợ cho vay ưu đãi,... nhằm tạo môi trường làm việc tốt hơn, xanh và sạch hơn, bảo đảm sức khỏe cho người lao động và cho toàn xã hội.

Khuyến nghị cho phát triển dệt may xanh

Trước vấn đề trên, ông Lê Tiến Trường đã đưa ra một số khuyến nghị. Cụ thể: Về chính sách vĩ mô: Việc thể chế hóa tiêu chuẩn xanh trong ngành dệt may với lộ trình phát triển và mục tiêu cụ thể, phù hợp với xu thế phát triển của kinh tế xanh trên thế giới là cần thiết. Lộ trình phát triển dệt may xanh cần nêu rõ các mục tiêu, quy định cụ thể cho từng giai đoạn ngắn, gắn với vai trò của các bên liên quan, đồng thời gắn với các cơ chế tài chính để thực hiện mục tiêu, như cơ chế đầu tư theo phương thức đối tác công - tư (PPP), cơ chế tài chính xanh... Quy định của Chính phủ là điều kiện sàn để đầu tư mới, đầu tư chiều sâu đi đúng định hướng của nền kinh tế xanh, tránh lãng phí của cải vật chất. Tuy nhiên, các mục tiêu này phải rất linh hoạt, liên tục có khả năng điều chỉnh theo diễn biến của thị trường chứ không thể giữ cố định như kế hoạch 5 năm, hay các chiến lược, quy hoạch 10 năm hiện có.

Chính sách hỗ trợ, khuyến khích, điều chỉnh hành vi của doanh nghiệp theo hướng chuyển đổi xanh và áp dụng sáng kiến xanh thông qua các công cụ về tín dụng, thuế, tiếp cận đất đai cũng cần được ban hành. Đặc biệt là, chính sách tài chính có tác dụng bổ sung dòng tiền và lợi thế chi phí cho doanh nghiệp triển khai sản xuất xanh, như giảm thuế VAT, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, giảm thuế nhập khẩu các nguồn nguyên liệu tham gia tạo sản phẩm xanh ở trong nước, có nguồn kinh phí hỗ trợ đào tạo nhân lực xanh tại doanh nghiệp từ quỹ bảo hiểm thất nghiệp. Việc đào tạo nguồn nhân lực kỹ thuật và quản lý kinh tế xanh cần được đưa vào chương trình đào tạo từ bậc cao đẳng trở lên để sẵn sàng phục vụ cho quá trình chuyển đổi xanh.

Về chiến lược phát triển: Đánh giá và phân tích, các bộ quản lý ngành cần tiến hành đánh giá kỹ lưỡng về tình trạng hiện tại của ngành dệt may, bao gồm việc sử dụng tài nguyên, phát sinh chất thải và cấu trúc chuỗi cung ứng. Xác định các bên liên quan chính và thu hút họ tham gia vào quá trình chuyển đổi xanh, bao gồm nhà cung cấp, nhà sản xuất, nhà bán lẻ, người tiêu dùng và cơ sở quản lý chất thải.

Đặt mục tiêu rõ ràng: Từ kết quả đánh giá, cần xác định mục tiêu rõ ràng và có thể đo lường được cho quá trình chuyển đổi. Chẳng hạn như, giảm tiêu thụ tài nguyên, giảm thiểu phát sinh chất thải và tăng cường sử dụng vật liệu tái chế. Các mốc thời gian thực tế để đạt được các mục tiêu này cần được đặt ra, bao gồm cả mục tiêu ngắn hạn và dài hạn. Mục tiêu linh hoạt, cơ chế điều chỉnh dễ dàng, có khuyến khích tài chính cho doanh nghiệp thực hiện tốt lộ trình chuyển đổi.

Về công nghệ và đầu tư: Cần có nghiên cứu mang tính dẫn đường, hướng dẫn và chuyển giao cho doanh nghiệp, cùng với kênh chuyển giao của khách hàng trong chuỗi cung ứng, bảo đảm việc lựa chọn hướng đi cho chuyển đổi sản xuất xanh về phương diện công nghệ không lãng phí.

Trước hết, cần tập trung vào nghiên cứu và ứng dụng công nghệ xanh, như năng lượng tái tạo, sử dụng hiệu quả năng lượng và nước, quản lý tài nguyên và xử lý chất thải, nghiên cứu áp dụng công nghệ sử dụng lại phát thải và rác thải, công nghệ tuần hoàn. Điều này có thể giúp giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường và tạo ra nguồn tài nguyên bền vững. Bên cạnh đó, cần tăng cường hợp tác với đối tác, nhà cung cấp máy móc thiết bị để học hỏi, chuyển giao công nghệ tiên tiến trong ngành dệt may.

Về tài chính: Nghiên cứu, phát triển các lựa chọn tài chính xanh, như trái phiếu xanh, khoản tín dụng cho sản xuất xanh và đầu tư tác động (impact investing). Các công cụ tài chính này thu hút nhà đầu tư đang tìm cách hỗ trợ các sáng kiến thân thiện với môi trường và có thể cung cấp vốn cần thiết cho dự án nhà máy dệt may xanh.

Cộng tác với doanh nghiệp, nhà đầu tư và tổ chức khác để tập hợp nguồn lực và chia sẻ gánh nặng tài chính của các sáng kiến xanh. Liên doanh, tập đoàn và quan hệ đối tác có thể tạo ra lợi thế kinh tế theo quy mô và phân tán hóa rủi ro.

Về nhân lực: Đầu tiên, cần xác định khoảng cách về kỹ năng của người lao động trong doanh nghiệp có thể cản trở quá trình chuyển đổi sang sản xuất xanh. Từ đó, xây dựng chương trình đào tạo để nâng cao kiến thức cho lực lượng lao động về tiêu chí của dệt may xanh, thực hành bền vững và công nghệ mới. Hợp tác với trường đại học, cơ sở đào tạo để phát triển chương trình đào tạo lực lượng lao động nguồn cho sản xuất xanh, bao gồm cả lao động trực tiếp và lực lượng quản lý. Xây dựng mạng lưới liên ngành/liên doanh nghiệp để cùng chia sẻ kiến thức, kỹ năng, thực hành xanh hóa sản xuất.

Về thị trường: Đẩy mạnh công tác thông tin, truyền thông về chiến lược, chương trình cũng như sản phẩm xanh và ý nghĩa của dệt may xanh mà doanh nghiệp đang có để thu hút sự quan tâm của cộng đồng. Từ đó, góp phần thay đổi nhận thức, thói quen của người tiêu dùng hướng đến sản phẩm xanh, bền vững.

Sử dụng chiến dịch tiếp thị và kênh truyền thông phù hợp để làm nổi bật các khía cạnh tuần hoàn của sản phẩm, đồng thời tạo cơ hội cho người tiêu dùng được tham gia vào quá trình sản xuất sản phẩm xanh, như đóng góp sáng kiến về nguyên liệu xanh, đề xuất quy trình sản xuất xanh, quy trình sản xuất tuần hoàn...

Xây dựng văn hóa tiêu dùng sản phẩm xanh, bền vững: Dịch chuyển sang sử dụng sản phẩm dệt may xanh với số lượng ít đi, giá mỗi đơn vị sản phẩm cao lên, mẫu mã chưa đa dạng như hàng hóa dệt may thời trang truyền thống, thời trang nhanh hiện nay là một quá trình điều chỉnh hành vi tiêu dùng đã hình thành nhiều năm của các nền kinh tế trên thế giới, tiêu thụ quá mức nhu cầu dẫn đến tạo áp lực về chất thải đang là vấn đề toàn cầu cấp bách nhất. Chính vì vậy, bên cạnh nỗ lực về kinh tế thì cần rất nhiều nỗ lực xây dựng văn hóa tiêu dùng mới, văn hóa tiêu dùng sản phẩm xanh. Sự thấu hiểu, chấp nhận sử dụng ít đi, nhưng là sản phẩm xanh với giá cả cao hơn từ người tiêu dùng là nhân tố quyết định thành công của quá trình xanh hóa ngành dệt may.

Duy Trinh (t/h) /Chất lượng Việt Nam

Tin cùng chuyên mục

Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) vừa báo cáo Chính phủ kịch bản cấp điện năm 2025. Theo đó, cung ứng điện năm 2025 vẫn được đáp ứng trong đa số các th..
09:19 | 22/10/2024
Ngày 10/10, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Hậu Giang đã có buổi làm việc với công ty điện lực tỉnh để nghe báo cáo, nắm bắt tình hình hoạt động của ngành..
06:50 | 22/10/2024
Việt Nam đang thúc đẩy hợp tác phát triển ngành công nghiệp bán dẫn và AI với các quốc gia, nền kinh tế phát triển thế giới.
09:37 | 21/10/2024
Mặc dù được kỳ vọng là những ''quả đấm thép'' của nền kinh tế thế nhưng hiện nay, khu vực doanh nghiệp nhà nước đang bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế; h..
10:10 | 20/10/2024
Nhiều doanh nghiệp dệt may trong nước đã tích cực thực hiện chuyển đổi số nhằm nâng cao năng suất, sức cạnh tranh trên thị trường.
00:25 | 20/10/2024
Viện Fraser cho rằng: Điều quan trọng của Chính phủ Việt Nam phải kiên trì chính sách, coi vốn đầu tư công là ''vốn mồi'' để thu hút đầu tư tư nhân và..
09:49 | 19/10/2024
9 tháng năm 2024, Tăng trưởng kinh tế đạt 6,82%, cao hơn mức kỳ vọng trong bối cảnh 26 địa phương phía Bắc bị ảnh hưởng bởi cơn bão số 3 vừa qua. Ngàn..
09:11 | 18/10/2024
VEPR dự báo tăng trưởng quý IV sẽ đi ngang ở mức 7,4%, cả năm sẽ đạt mục tiêu 7%. Nhưng ở kịch bản thấp, ở kịch bản thấp quý IV sẽ không đạt 7%, và cả..
08:59 | 17/10/2024
Cần tăng cường chính sách hỗ trợ để các doanh nghiệp ''sếu đầu đàn'' phát huy vai trò dẫn dắt, tạo hệ sinh thái cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.
09:31 | 16/10/2024
Là quốc gia sản xuất và tiêu thụ thép hàng đầu Đông Nam Á, ngành thép Việt Nam đang đối mặt nhiều thách thức, trong đó có sự gia tăng các biện pháp ph..
09:37 | 15/10/2024

 

Giấy phép hoạt động Số 03 /GP - TTĐT
Sở TTTT Hải Phòng cấp ngày 06 /5 /2021
Trụ sở: 47 /384 Lạch Tray, P. Đằng Giang
Quận Ngô Quyền - Thành phố Hải Phòng
marketnews.vn@gmail.com /0905414241

BAN BIÊN TẬP - HÀNH CHÍNH & TRỊ SỰ
Chịu trách nhiệm: TBT. Nguyễn Việt Thắng

VPĐD BẢN TIN THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM
N.Khách La Thành - Văn phòng Chính phủ
226 Phố Vạn Phúc, Q. Ba Đình, TP Hà Nội
Phó Trưởng VP  TP. Hà Nội Giang Thị Hoa
Tel: 024 39 195 195 * Fax: 024 39 196 196

icon facebook  icon-zalo  icon youtube  www.tiktok.com/@thitruongvietnam.vn   Chung nhan Tin Nhiem Mang

VĂN PHÒNG - KHU VỰC ĐÔNG NAM BỘ
Trưởng VP Đồng Nai Nguyễn Duy Khương

VP HCM: 138 Nguyễn Thị Minh Khai, Q.3
Trưởng VP TP. HCM Nhà báo Đinh Gia Cư
Tel: (028) 39181920 * Fax: (028) 39181920

(*)Không sao chép dưới mọi hình thức
Tra cứu  | Đường Dây nóng: 09 05 08 2014

Vận hành bởi Công ty TNHH Bản tin Thị trường Việt Nam
icon up