Năm 2024, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 786,29 tỷ USD, tăng 15,4% so với năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 14,3%; nhập khẩu tăng 16,7% . Cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 24,77 tỷ USD.
Tăng trưởng xuất khẩu ổn định
Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2024 tiếp tục duy trì mức tăng trưởng tích cực trong bối cảnh kinh tế toàn cầu có nhiều rủi ro, bất ổn. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa năm 2024 sơ bộ đạt 405,53 tỷ USD, tăng 14,3% so với năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 114,59 tỷ USD, tăng 19,8%, chiếm 28,3% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 290,94 tỷ USD, tăng 12,3%, chiếm 71,7%.
Trong năm 2024 có 37 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 94,3% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 8 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 69,0%). Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực như điện tử, máy tính và linh kiện; điện thoại và linh kiện; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác; dệt may; giày dép và gỗ duy trì vị trí dẫn đầu. Điện tử máy tính và linh kiện tiếp tục là nhóm hàng xuất khẩu dẫn đầu về giá trị xuất khẩu, với sự đóng góp lớn của các tập đoàn công nghệ như Samsung, LG, Apple và các công ty sản xuất linh kiện điện tử tại Việt Nam. Giá trị xuất khẩu năm 2024 của nhóm hàng điện tử, máy tính và linh kiện đạt 72,6 tỷ USD, tăng 26,6% so với năm 2023, chiếm 17,9% tổng kim ngạch xuất khẩu. Điện thoại và linh kiện đứng vị trí thứ 2 với kim ngạch đạt 53,9 tỷ USD, tăng 2,9%; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác đạt 52,3 tỷ USD, tăng 21%; hàng dệt may đạt 37 tỷ USD, tăng 11,2%; giày dép đạt 22,9 tỷ USD, tăng 13%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 16,3 tỷ USD, tăng 20,9%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 15,1 tỷ USD, tăng 6,4%; thủy sản đạt 10 tỷ USD, tăng 11,9%.
Năm 2024 ghi nhận nhiều thành tựu trong xuất khẩu nông sản với gạo, cà phê, hạt điều, trái cây. Gạo của Việt Nam đã vượt qua các đối thủ cạnh tranh lớn như Thái Lan, Ấn Độ và đạt được những hợp đồng xuất khẩu lớn, đặc biệt là tại các thị trường châu Á và châu Phi. Trái cây Việt Nam, đặc biệt là các loại như mít, thanh long và xoài đã gia tăng xuất khẩu sang các thị trường khó tính như Mỹ, EU và Nhật Bản, đánh dấu bước tiến lớn trong việc nâng cao chất lượng và tiêu chuẩn sản phẩm. Hàng nông sản vẫn chiếm tỷ trọng đáng kể trong kim ngạch xuất khẩu, với các thị trường tiêu thụ truyền thống như Trung Quốc, Mỹ, EU và Nhật Bản.
Năm 2024, hoạt động xuất, nhập khẩu của Việt Nam đạt được nhiều thành tích
Tăng trưởng nhập khẩu ấn tượng
Tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam tiếp tục tăng mạnh. Tính chung cả năm 2024, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt 380,76 tỷ USD, tăng 16,7% so với năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 140,11 tỷ USD, tăng 19,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 240,65 tỷ USD, tăng 15,1%.
Trong năm 2024 có 46 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 93,1% tổng kim ngạch nhập khẩu (có 6 mặt hàng nhập khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 54,0%), chủ yếu là các mặt hàng phục vụ nhu cầu nguyên liệu và thiết bị cho sản xuất công nghiệp. Việt Nam vẫn phải nhập khẩu nhiều nguyên liệu sản xuất (như thép, dầu thô, hóa chất) và máy móc, thiết bị công nghiệp phục vụ cho ngành chế tạo, điện tử và ô tô. Một số mặt hàng nhập khẩu có sự gia tăng mạnh như vật tư y tế và linh kiện điện tử, phản ánh sự phát triển mạnh mẽ của ngành y tế và công nghệ trong nước.
Về cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu năm 2024, nhóm hàng tư liệu sản xuất đạt 356,43 tỷ USD, chiếm 93,6%, trong đó nhóm hàng máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng chiếm 47,4%; nhóm hàng nguyên, nhiên, vật liệu chiếm 46,2%. Nhóm hàng vật phẩm tiêu dùng đạt 24,33 tỷ USD, chiếm 6,4%. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu đều tăng cao so với năm trước. Mặt hàng nhập khẩu dẫn đầu là điện tử, máy tính và linh kiện đạt 107,1 tỷ USD, chiếm 28,1% tổng kim ngạch nhập khẩu, tăng 21,7% so với năm 2023; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác đạt 48,9 tỷ USD, tăng 17,6%; vải đạt 14,9 tỷ USD, tăng 14,5%; sắt thép đạt 12,6 tỷ USD, tăng 20,6%; chất dẻo đạt 11,8 tỷ USD, tăng 11,8%; điện thoại và linh kiện đạt 10,4 tỷ USD, tăng 18,9%.
Cán cân thương mại tiếp tục xuất siêu
Cán cân thương mại của Việt Nam trong năm 2024 tiếp tục duy trì mức xuất siêu cao. Mặc dù nhập khẩu tăng mạnh, nhưng xuất khẩu vẫn giữ được đà tăng trưởng, giúp cán cân thương mại duy trì mức thặng dư. Tính chung cả năm 2024, cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 24,77 tỷ USD (năm trước xuất siêu 28,4 tỷ USD) nhờ tăng trưởng xuất khẩu ổn định và giảm thiểu nhập khẩu những mặt hàng không thiết yếu. Đây là năm thứ 9 liên tiếp cán cân thương mại hàng hóa của Việt Nam đạt xuất siêu. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 25,52 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 50,29 tỷ USD.
Thị trường xuất khẩu chủ lực mở rộng và tăng cao
Sự gia tăng xuất khẩu chủ yếu đến từ các thị trường lớn như Mỹ, châu Âu (EU), Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc. Đặc biệt, Mỹ vẫn là đối tác xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam với các mặt hàng như điện tử, dệt may, giày dép, và nông sản.
Châu Á (bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc) vẫn là khu vực tiêu thụ lớn nhất của hàng hóa Việt Nam. Bên cạnh đó, Mỹ và EU cũng là hai thị trường rất quan trọng, đặc biệt là trong các lĩnh vực xuất khẩu nông sản, dệt may, giày dép, và điện tử. Việc gia tăng xuất khẩu sang các thị trường châu Phi và Nam Mỹ là một điểm sáng trong năm 2024. Các mặt hàng như nông sản, thực phẩm chế biến sẵn và sản phẩm tiêu dùng đã đạt kết quả ấn tượng tại những thị trường này. Đây sẽ là những thị trường tiềm năng mà Việt Nam đang tìm cách mở rộng xuất khẩu. Một số thị trường chủ yếu có tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu năm 2024 tăng mạnh so với năm trước như sau:
Trung Quốc giữ vững là thị trường có quan hệ thương mại hai chiều lớn nhất, đạt 204,9 tỷ USD, tăng 19,2% so với năm 2023; trong đó, xuất khẩu đạt 60,6 tỷ USD, giảm 1,1%; nhập khẩu ở vị trí dẫn đầu với kim ngạch đạt 114,3 tỷ USD, tăng 30,4%.
Hoa Kỳ đứng ở vị trí thứ 2 với 134,6 tỷ USD, tăng 21,5%; trong đó, xuất khẩu đạt 119,6 tỷ USD, tăng 23,3%; nhập khẩu đạt 15,0 tỷ USD, tăng 8,8%.
ASEAN ước đạt 83,9 tỷ USD; trong đó xuất khẩu đạt giá trị 37 tỷ USD, tăng 13,7%; nhập khẩu đạt 46,9 tỷ USD, tăng 14,7%.
Hàn Quốc ước đạt 81,8 tỷ USD, tăng 7,6%; trong đó, xuất khẩu ước đạt 25,5 tỷ USD, tăng 8,7%; nhập khẩu ước đạt 56,2 tỷ USD, tăng 7,1%.
Thị trường EU ước đạt 68,8 tỷ USD; trong đó xuất khẩu ước đạt 52,1 tỷ USD, tăng 19,3%; nhập khẩu đạt 16,7 tỷ USD, tăng 11,8%.
Nhật Bản ước đạt 46 tỷ USD; trong đó xuất khẩu đạt 24,6 tỷ USD, tăng 5,6% và nhập khẩu đạt 21,4 tỷ USD, giảm 1,2%.
Trong năm 2024, xuất siêu sang Hoa Kỳ đạt 104,6 tỷ USD tăng 25,6% so với năm trước; xuất siêu sang EU 35,4 tỷ USD, tăng 23,2%; xuất siêu sang Nhật Bản 3,2 tỷ USD, tăng 91,9%; nhập siêu từ Trung Quốc 83,7 tỷ USD, tăng 69,5%; nhập siêu từ Hàn Quốc 30,7 tỷ USD, tăng 5,9%; nhập siêu từ ASEAN 9,9 tỷ USD, tăng 18,9%.
Hiệp định thương mại quốc tế phát huy hiệu quả
Các hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam ký kết, đặc biệt là Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện khu vực (RCEP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) và Hiệp định CPTPP tiếp tục phát huy hiệu quả trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu và giảm thiểu rào cản thuế quan. Những FTA này không chỉ thúc đẩy xuất khẩu, mà còn tạo cơ hội cho Việt Nam gia tăng nhập khẩu công nghệ và thiết bị sản xuất hiện đại từ các quốc gia đối tác.
Việt Nam đã ký kết hoặc hoàn tất nhiều thỏa thuận thương mại quốc tế trong năm 2024, mở rộng khả năng tiếp cận các thị trường quốc tế. Các thỏa thuận này không chỉ giúp tăng trưởng xuất khẩu mà còn tạo ra những cơ hội đầu tư vào các ngành công nghiệp trong nước.
Chuyển đổi số và Logistics mạnh mẽ
Cải thiện hạ tầng logistics và ứng dụng công nghệ trong xuất, nhập khẩu tiếp tục là một yếu tố quan trọng giúp giảm chi phí và nâng cao hiệu quả giao thương. Các công ty xuất, nhập khẩu ở Việt Nam ngày càng áp dụng công nghệ số trong việc quản lý kho, vận chuyển, và làm thủ tục hải quan, từ đó nâng cao hiệu suất và giảm thời gian thông quan, tăng tính hiệu quả của hoạt động xuất, nhập khẩu. Các sáng kiến như hệ thống thông quan tự động, trí tuệ nhân tạo (AI) và dữ liệu lớn (Big Data) đã giúp các doanh nghiệp nhanh chóng tiếp cận thông tin thị trường, quản lý chuỗi cung ứng và tối ưu hóa quá trình xuất, nhập khẩu.
Chính phủ tiếp tục thực hiện các chính sách hỗ trợ xuất khẩu thông qua các chương trình xúc tiến thương mại và hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu như tài trợ chi phí tham gia hội chợ, hỗ trợ tìm kiếm thị trường mới. Ngoài ra, các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong nước về thuế, tín dụng và đào tạo nguồn nhân lực cho lĩnh vực xuất, nhập khẩu cũng đã giúp cải thiện hiệu quả hoạt động của ngành.
Những kỷ lục trong hoạt động xuất, nhập khẩu năm 2024
Xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam đã có những bước tiến mạnh mẽ, rút ngắn thời gian để đạt những kỷ lục mới. Sau nhiều năm nỗ lực, đến năm 2012 kim ngạch xuất khẩu hàng hóa vượt mốc 100 tỷ USD; năm 2017 (sau 5 năm) vượt mốc 200 tỷ USD; năm 2021 (sau 4 năm) vượt mốc 300 tỷ USD. Năm 2024 ghi nhận nhiều kỷ lục quan trọng đối với hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa. Tổng giá trị kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa tiến sát mốc 800 tỷ USD, đạt mức kỷ lục 786,29 tỷ USD, cao hơn mức kỷ lục năm 2022. Trong đó, xuất khẩu lần đầu tiên vượt qua mốc 400 tỷ USD (sau 3 năm). Đây có thể coi là một cột mốc đáng ghi nhận cho những nỗ lực phát triển thương mại quốc tế của Việt Nam. Những kết quả này đã đưa Việt Nam đứng thứ 17 trong 20 nền kinh tế có quy mô thương mại lớn nhất thế giới.
Cũng trong năm 2024, lần đầu tiên có một mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu hoặc nhập khẩu trên 100 tỷ USD. Đó là mặt hàng điện tử, máy tính và linh kiện với kim ngạch nhập khẩu đạt 107,1 tỷ USD, tăng rất cao 21,7% so với năm 2023, chiếm 28,1% tổng kim ngạch nhập khẩu. Đây cũng là mặt hàng dẫn đầu trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu, đạt 72,6 tỷ USD, đưa tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu mặt hàng điện tử, máy tính và linh kiện lên 179,7 tỷ USD, tăng mạnh 23,6% so với năm 2023.
Sự tăng trưởng mạnh mẽ của mặt hàng điện tử, máy tính và linh kiện cho thấy Việt Nam đang chuyển dịch dần từ việc sản xuất các sản phẩm thô sang các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, đặc biệt là trong các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và công nghệ cao. Sự phát triển của ngành sản xuất linh kiện điện tử, robot và phần mềm là minh chứng rõ rệt cho sự chuyển dịch này.
Hạn chế trong hoạt động xuất, nhập khẩu năm 2024
Năm 2024, Việt Nam tiếp tục ghi nhận nhiều thành tựu quan trọng trong hoạt động xuất, nhập khẩu, bao gồm tăng trưởng ổn định về kim ngạch xuất khẩu, tận dụng tốt các hiệp định thương mại tự do và duy trì cán cân thương mại thặng dư. Tuy nhiên, vẫn tồn tại nhiều thách thức lớn, đặc biệt là sự suy giảm nhu cầu từ các thị trường lớn, khó khăn trong việc cải thiện hạ tầng logistics và sự phụ thuộc vào một số mặt hàng chủ lực.
Cùng với sự suy giảm nhu cầu toàn cầu, suy thoái kinh tế ở các thị trường lớn như Mỹ, EU và Trung Quốc đã tác động đến nhu cầu tiêu thụ hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Các chính sách tiền tệ thắt chặt và tình hình lạm phát cao tại các quốc gia này đã làm giảm sức mua và ảnh hưởng đến tăng trưởng xuất khẩu.
Mặc dù xuất khẩu sang một số thị trường mới tăng trưởng, nhưng sự giảm sút của xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc – đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam – đã có ảnh hưởng tiêu cực đến tổng thể kim ngạch xuất khẩu. Trong năm 2024, xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc đạt 60,6 tỷ USD, giảm 1,1% so với cùng kỳ năm 2023 (năm 2023 tăng 6,3% so với năm 2022).
Khó khăn trong xuất khẩu nông sản và thủy sản
Các sản phẩm nông sản và thủy sản của Việt Nam gặp khó khăn do biến động giá cả và yêu cầu khắt khe từ các thị trường xuất khẩu. Thị trường EU, Nhật Bản và Mỹ ngày càng có yêu cầu cao về chất lượng, chứng nhận an toàn thực phẩm, trong khi Việt Nam chưa hoàn toàn đáp ứng được các tiêu chuẩn này. Đối với xuất khẩu thủy sản, mặc dù là mặt hàng xuất khẩu chủ lực, nhưng ngành thủy sản phải đối mặt với những thách thức như dịch bệnh trong nuôi trồng thủy sản, chi phí sản xuất tăng cao và các rào cản thương mại từ các nước nhập khẩu.
Mặc dù Việt Nam đã có sự gia tăng xuất khẩu ở các lĩnh vực có giá trị gia tăng như điện tử và cơ khí chế tạo, nhưng xuất khẩu vẫn còn phụ thuộc nhiều vào một số mặt hàng chủ lực như điện thoại, dệt may, giày dép và nông sản, chưa đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu. Điều này làm gia tăng rủi ro khi có biến động về giá cả hoặc nhu cầu giảm từ các thị trường chủ yếu.
Dù có cải thiện, nhưng hệ thống hạ tầng logistics của Việt Nam vẫn chưa đồng bộ và còn nhiều yếu tố gây tắc nghẽn, đặc biệt tại các cảng biển lớn. Điều này làm tăng chi phí vận chuyển hàng hóa xuất, nhập khẩu, giảm sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế. Thời gian giao hàng dài, các quy trình thủ tục hải quan, đặc biệt đối với hàng hóa xuất khẩu, vẫn còn phức tạp và mất thời gian, gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc nhanh chóng đưa hàng hóa ra thị trường.
Phương Nam /Chất lượng Việt Nam